Thôn Huệ Lai là địa phương có 95% dân số chủ yếu sống bằng nghề nông nghiệp, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Song những năm gần đây nhờ có sự phát triển của nghề trạm vàng bạc, người dân đã có thêm nghề phụ nâng cao thu nhập, phát triển kinh tế gia đình từng bước thoát khỏi đói, nghèo và vươn lên khá, giàu.
Làng nghề kim hoàn Huệ Lai được hình thành và phát triển gần 20 năm. Những năm đầu của thập kỷ 90 nghề kim hoàn về với Huệ Lai còn mới lạ do một người con Huệ Lai đi làm công kiếm sống từ làng Châu Khê - xã Thúc Kháng - huyện Bình Giang (Hải Dương) mang về, để tăng thêm thu nhập cho gia đình trong những lúc nông nhàn. Ban đầu chỉ có 3 - 4 người học nghề rồi về truyền cho nhau, trải qua nhiều năm, đã phát triển tăng cả số hộ và người lao động làm nghề này. Nếu như năm 1995 nghề trạm vàng, bạc Huệ Lai mới có 42/238 hộ với 170 lao động tham gia, thì đến nay đã thu hút được 70% số hộ tham gia chế tác kim hoàn và đã trở thành nghề chính, với 249/357 hộ với trên 1.000 lao động. Bình quân doanh thu của làng nghề kim hoàn Huệ Lai cùng các thôn khác 20 tỷ đồng/năm.
Trong quá trình phát triển và đi vào sản xuất ổn định, Hội Nông dân xã đã tuyên truyền, vận động các hộ nông dân, người lao động tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị của làng nghề, sản xuất hàng hoá chất lượng, giữ được chữ tín đồng thời bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh môi trường. Toàn xã có 30% số hộ làm nông nghiệp không có vốn đã được Hội Nông dân tín chấp cho vay vốn, với tổng số 5 tỷ đồng để đầu tư sản xuất.
Để có một làng nghề như hôm nay, những người làm nghề kim hoàn phải trải qua rất nhiều khó khăn, ban đầu cũng phải đối mặt với cơ chế thị trường, cùng với việc giữ chữ tín, thì việc nhanh nhạy nắm bắt thị trường là hết sức cần thiết, bởi đó là khâu quyết định tới sự phát triển bền vững của làng nghề. Nếu như trước đây những sản phẩm của làng nghề Huệ Lai chủ yếu tiêu thụ ở Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội thì nay mở rộng tiêu thụ khắp các tỉnh thành trong cả nước. Chính từ việc mở rộng thị trường mà sản phẩm của làng nghề làm ra tới đâu đều tiêu thụ hết đến đó và không bị ứ đọng. Ngoài ra, việc chế tác theo đơn đặt hàng, những người thợ còn sáng tạo ra nhiều mẫu mã, sản phẩm mới lạ, chất lượng cao được khách hàng trong nước ưa chuộng. Nhờ đó mà thu nhập của người thợ làng nghề kim hoàn bình quân từ 1,5-2,5 triệu đồng/người/tháng, có những thợ giỏi đạt mức thu nhập từ 3,5 - 4,5 triệu đồng/người/tháng.
Đặc thù của nghề kim hoàn cũng rất khắt khe, bởi nó không chỉ đòi hỏi sự cần cù, chịu khó, mà còn đòi hỏi đôi bàn tay tài hoa khéo léo để trổ các hoa văn tinh tế trên các sản phẩm vàng, bạc. Người thợ cần phải có sự kiên trì, nhẫn nại trong từng công đoạn. Muốn trở thành một thợ kim hoàn giỏi, chế tác được các mặt hàng theo yêu cầu của khách trước hết người thợ phải có năng khiếu, chịu khó và sáng tạo thì mới gắn bó được lâu dài với nghề.
Theo ông Đỗ Xuân Chuyển là người xây dựng lên làng nghề và là chủ nhiệm HTX trạm vàng bạc cho biết: Hợp tác xã thành lập từ năm 1998, với số vốn điều lệ 30 triệu đồng, mục đích là nhằm tập hợp lực lượng sản xuất và tìm đầu ra cho sản phẩm. “Vạn sự khởi đầu nan", do vốn ít, không có thị trường tiêu thụ, lúc đầu Hợp tác xã chạm bạc Phù ủng gặp không ít khó khăn. Trước thực tế đó, hợp tác xã đã nhanh chóng đề ra chiến lược tìm kiếm thị trường và trách nhiệm đặt trên vai đội ngũ 10 người làm công tác tiếp thị. Với chiến lược phát triển đúng đắn, đến nay, hợp tác xã đã thu hút 42 hộ xã viên tham gia. Đây là thành công không nhỏ với một hợp tác xã mới trải qua 7 năm hoạt động, tất cả xã viên đều là nông dân. Đặc biệt, thành công này càng có ý nghĩa hơn khi nghề chạm bạc không phải là nghề truyền thống của địa phương. HTX tạo công ăn việc làm cho các lao động, các hộ gia đình thiếu vốn nhận hàng về làm. Đến nay vốn của HTX trạm bạc có từ 9-10 tỷ đồng, để duy trì tạo việc làm cho các lao động và các hộ gia đình thiếu vốn để sản xuất.
Điển hình trong làng nghề có các hộ gia đình ông: Nguyễn Xuân Chuyển, Phạm Ngọc Quả, Phạm Văn Đinh đã có thu nhập bình quân từ 80-100 triệu đồng/năm và mỗi hộ gia đình thường xuyên tạo công ăn việc làm cho 20 lao động với mức thu nhập ổn định. Ngoài ra hộ gia đình ông Nguyễn Xuân Chuyển còn mở 2 cửa hàng vàng bạc tại huyện Mai Sơn (Sơn La) và huyện Yên Hưng (Quảng Ninh). Để giảm bớt công đoạn thủ công trong sản xuất, một số hộ trong làng nghề mua máy sản xuất để giảm công lao động, tăng năng suất lao động. Bên cạnh những thuận lợi về thị trường, tiêu thụ sản phẩm, làng nghề Huệ Lai còn gặp khó khăn về vốn, lãi suất cho vay ở mức cao. Chính quyền xã cũng đã có biện pháp hỗ trợ nhằm giữ vững cho làng nghề Huệ Lai phát triển bền vững.
Quy trình sản xuất sản phẩm bạc đơn giản hơn sản phẩm làm bằng vàng tây. Do không chỉ có tác dụng tránh gió, bảo vệ sức khoẻ như trước đây, các sản phẩm làm bằng bạc giờ đã trở thành đồ trang sức nên cũng được thiết kế rất đẹp, gợi nét thẩm mỹ cao.
Vốn cho thiết bị sản xuất không lớn, nhưng cái khó khăn nhất là vốn để mở rộng sản xuất. Vì đối với mặt hàng này, vốn bao nhiêu cũng không đủ". Trong định hướng phát triển của hợp tác xã, tăng nguồn vốn, nhân rộng mô hình sản xuất, tiếp tục tìm kiếm thị trường, giữ vững uy tín và không ngừng nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm luôn là những vấn đề được quan tâm hàng đầu. Sắp tới, huyện sẽ mở một khu làng nghề tập trung để phát triển tiểu thủ công nghiệp. Nếu được cấp phép, hợp tác xã sẽ vào khu làng nghề tập trung của huyện để có điều kiện mở rộng sản xuất, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề hiện nay.
Hợp tác xã chạm bạc Phù Ủng không chỉ thu hút số lượng lớn lao động mà còn đào tạo tay nghề cho người học việc ở các địa phương khác, tăng thu nhập cho người dân, góp phần giữ gìn nghề làm trang sức thủ công truyền thống của dân tộc. Từ những việc làm hiệu quả của làng nghề, cùng với sự nỗ lực vươn lên của chính người dân Huệ Lai, năm 2004 vinh dự cho làng nghề trạm vàng bạc Huệ Lai được UBND tỉnh Hưng Yên trao bằng công nhận là “Làng nghề vàng bạc Huệ Lai”. Hy vọng rằng trong tương lai làng nghề vàng bạc Huệ Lai tiếp tục phát triển một cách bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân nơi đây, góp phần vào công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh.