Trần Ứng Long đã hạ lệnh cho quân vào rừng chặt tre đan thuyền phỏng theo cách đan thúng. Nhờ có thuyền nan mà quân của Trần Ứng Long đã phá tan được quân của Đỗ Cảnh Thạc, góp phần thống nhất giang sơn. Người dân nơi đây tin rằng nghề bắt đầu có từ khi đó và cũng tâm niệm rằng Trần Ứng Long chính là ông tổ của nghề đan thuyền.
Nghề đan thuyền nan là một nghề truyền thống nhưng chỉ phát triển dưới hình thức là một nghề phụ. Trong làng có tới 1/3 số hộ làm nghề. Ngoài thời gian dành cho công việc đồng áng, những lúc nông nhàn người dân mới tranh thủ làm những chiếc thuyền nan. Trước đây, dân thôn Nội Lễ làm đủ mọi loại thuyền từ, có những thuyền nhỏ dùng để chở khi gặt lúa, hái sen… thuyền nan không chỉ phục vụ trong làng mà còn được bán rộng ra các vùng lân cận. Đến khi nghề đóng tàu thủy bằng gỗ hay bằng sắt phát triển thì Nội Lễ chỉ làm chuyên một số loại thuyền nan: thuyền ba thang, thuyền lưới, thuyền sen… còn các loại thuyền khác – thuyền dóng cốn, thuyền te, chỉ khi nào có khách đặt hàng mới làm.
Nguyên liệu chủ yếu là tre và nứa. Theo kinh nghiệm, tre làm cạp thuyền và thang thuyền là những cây tre đực, tức là những cây tre to, có ống dài. Còn tre dùng để uốn cong mũi thuyền hay phủ đầu thì dung tre cái là tốt nhất vì loại tre này có độ mềm, dẻo nhất định. Tre phải già đều nhau, nếu không, độ co giãn của nan tre không bằng nhau sẽ làm cho thuyền bị vênh, bị hở. Kích cỡ của mỗi loại thuyền dựa trên một khuôn mẫu chung. Nan thuyền có 3 loại: nan dọc, nan ngang và nan mũi. Trong đó nan dọc là nan quan trọng nhất, vì nan dọc tạo nên xương sống của chiếc thuyền, nên thường được dùng đoạn gốc của cây nứa.
Đan mê thuyền là khâu đòi hỏi sự lành nghề. Người thợ phải rất tỉ mỉ, cẩn thận khi đan thì các nan thuyền mới đều và khít khi đó các công đoạn sau: sơn thuyền, mê và sắn thuyền sẽ gắn kết làm một, lòng thuyền sẽ ko bị thấm nước. Khi đan quan trọng nhất là phải dồn nan sao cho thật chặt. Mê thuyền đan xong sẽ đem ra phơi nắng. Nan sẽ bị ngót, người thợ phải làm tiếp công đoạn nữa là dồn nan và cài thêm nan dọc theo kiểu “cất 5 đè 2”.Tiếp đến là công đoạn cạp thuyền. Đây là công đoạn quan trọng nhất, đòi hỏi người thợ phải có tay nghề, kỹ thuật cao, cạp sao cho cân đối, không bị vênh, bị méo. Người ta đào một cái hố đất theo hình lòng thuyền, sau đó chốt cọc ở bốn góc để làm gióng cạp. Cạp thuyền làm bằng tre đực già tách đôi, hai đầu vót mỏng. Cạp thuyền có hai loại là cạp trong và cạp ngoài. Cạp trong là thành phần chịu lực chính của thuyền nên phải dùng tre gốc. Cạp thuyền xong đến nộm thuyền để buộc chặt cạp trong và cạp ngoài. Cạp xong, người thợ dùng phân trâu trộn nhuyễn với nước và một vài thứ khác, trát kín các khe hở giữa các nan tre. Sau đó phơi nắng vài ngày rồi quét nhựa đường bên ngoài vài ba lượt thì coi như chiếc thuyền đã hoàn thành. Để tạo độ cứng cho thuyền, người ta phải đóng thêm bộ ki gỗ táu ở đáy thuyền và bộ xà lỳ ở bốn bên cạp thuyền. Chính vì thế, tuy đan bằng nan tre nhưng thuyền rất vững và chắc..
Trong quy trình đan thuyền thì nức thuyền – buộc thuyền chính thức, là khâu quan trọng nhất. Trước đây người thợ nứt bằng lạt tre. Để lạt mềm và bền thì trước khi nứt, người thợ phải chọn lạt cật tre đem luộc kỹ sau ngâm với nước muối. Còn ngày nay hầu hết thuyền được nứt bằng dây thép nhỏ. Sau khi nứt xong thì tiếp tục đến sơn. Thuyền được sơn bằng một loại vỏ cây gọi là sắn thuyền. Trước khi sơn, sắn thuyền phải được cạo sạch vỏ, dùng dao băm nhỏ, sau đó cho vào cối giã cho đến khi thật dẻo, thật nhuyễn thì thôi. Thuyền phải được sơn làm ba lần thì lòng thuyền mới không bị thấm nước. Sơn lần thứ nhất là để sắn thuyền kết dính toàn bộ các mắt nan, đến lần thứ hai, thứ ba là để củng cố lại độ kết dính. Sau khi sơn thuyền sẽ được hong phơi cho khô. Nhưng nếu phơi gặp trời nắng to quá thì sắn thuyền sẽ bị nứt. Vì vậy, trời nắng to phải phơi thuyền vào trong bóng râm miễn sao cho khi sờ tay vào mặt thuyền thấy se tay là được. Đan một chiếc thuyền mất khá nhiều thời gian, thợ lành nghề cũng phải từ 1-2 ngày công mới hoàn thành được 1 chiếc thuyền nhỏ, còn thuyền lớn hơn thì có khi tới 8-10 ngày.
Đời người thợ thuyền, được nhìn những chiếc thuyền nan mình làm ra đầy ắp quà tặng sau mỗi mùa lao động vất vả là lòng đong đầy niềm vui. Cái nghề dung dị, con người gắn bó với nó cũng có ước muốn rất đỗi giản đơn, nhưng trước sự “biến thiên” của cuộc mưu sinh, nghề cũng không mang lại sự phát đạt. Sự tận tụy của những người thợ làm thuyền nan chỉ đơn giản vì chén cơm và cái tình mùa màng, nông dân./.