Nguyễn Văn Linh tên thật là Nguyễn Văn Cúc (Mười Cúc), sinh ngày 1/7/1915 (19/5 Ất Mão) tại làng Yên Phú xã Giai Phạm huyện Yên Mỹ. Thân phụ là nhà giáo Nguyễn Văn Lan. ...
Thời niên thiếu, ông Cúc phải chịu đựng biết bao điều bất hạnh: 5 tuổi đã mồ côi mẹ, 11 tuổi, thân phụ qua đời. Từ đó Nguyễn Văn Cúc sống nhờ vào sự đùm bọc của người chú ruột là Nguyễn Văn Hùng, một người có học thức, làm ở Sở dây thép Hải Phòng (nay là Viễn thông Hải Phòng). Ông Hùng tuy đông con vẫn giành sự ưu ái chăm sóc với người cháu mồ côi cha mẹ nhưng giàu nghị lực của mình.
Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, ông Cúc đã sớm có tinh thần yêu nước và tham gia vào các tổ chức cách mạng của Đảng.
Năm 1929 ông tham gia tổ chức Học sinh Đoàn do Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội lãnh đạo.
Ngày 01/5/1930, tham gia rải truyền đơn chống thực dân Pháp, bị giặc bắt, kết án tù chung thân, đày ra Côn Đảo. Ông là một trong những tù nhân trong án chính trị trẻ nhất lúc bấy giờ.
Năm 1936, Mặt trận Bình dân nắm chính quyền ở Pháp, thực hiện mở rộng tự do, dân chủ. Thực dân Pháp ở Đông Dương trả tự do cho một số tù chính trị, trong đó có Nguyễn Văn Cúc. Cũng trong năm đó ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương rồi được cử về Hải Phòng hoạt động.Tại đây, ông đã cùng các đồng chí xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng trung kiên và tổ chức quần chúng tin cậy, thành lập Đảng bộ lâm thời Hải Phòng.
Năm 1939, Nguyễn Văn Linh được Đảng điều vào công tác ở thành phố Sài Gòn, tham gia Ban chấp hành Đảng bộ thành phố. Cuối năm 1939, chiến tranh thế giới bùng nổ, do chính sách khủng bố trắng trợn của thực dân Pháp, nhiều cơ sở cách mạng trong cả nước bị khủng bố và tan rã, ông được phân công ra Trung kỳ bắt liên lạc với cơ sở Đảng còn lại ở các tỉnh để lập lại Xứ ủy.
Đầu năm 1941, ông bị địch bắt, đưa vào Sài Gòn, xử 5 năm tù và đày ra Côn Đảo lần thứ hai.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Nguyễn Văn Linh được trở về Nam Bộ, trực tiếp tham gia lãnh đạo cuộc kháng chiến ngay trong lòng thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn với cương vị Bí thư Thành ủy, Bí thư Đặc khu ủy. Từ năm 1949, ông Tham gia Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ.
Từ năm 1957 đến năm 1960, ông phụ trách Quyền Bí thư Xứ ủy Nam Bộ.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, trên cương vị Phó Bí thư và Bí thư, ông đã cùng Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo quân và dân miền Nam làm cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ cứu nước từ những năm tháng đen tối đến mùa xuân lịch sử toàn thắng (năm 1975).
Tổ quốc Việt Nam được thống nhất, ông được phân công trở lại làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được cử vào Bộ Chính trị, Ban bí thư Trung ương Đảng, lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng Ban cải tạo xã hội chủ nghĩa của Trung ương, Trưởng ban Dân vận và Mặt trận Trung ương, Chủ tịch Tổng công đoàn Việt Nam. Từ cuối năm 1981 đến giữa năm 1986, ông được phân công làm Bí thư Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương. Sau đó, ông được cử vào Bộ Chính trị tham gia Ban Bí thư, thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bầu ông làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Nguyễn Văn Linh là một trong những nhà lãnh đạo của Đảng khởi xướng đường lối đổi mới, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Năm 1987 đồng chí đã phát biểu và viết nhiều bài quan trọng làm sáng tỏ quan điểm đổi mới, đặc biệt là những vấn đề ông nêu ra dưới tiêu đề “Những việc cần làm ngay” có tác dụng thúc đẩy các cấp, các ngành, các tổ chức giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong thực tế cuộc sống hàng ngày, đấu tranh chống tiêu cực tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nếp nghĩ, cánh làm của mỗi người. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) ông thôi giữ chức Tổng Bí thư và làm Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ông qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 27 năm 4 năm 1998.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, ông Nguyễn Văn Linh đã từng trải biết bao giản khổ về vật chất và tinh thần, đã bình tĩnh trước mọi hiểm nguy và biến cố, có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của Đảng, có tầm nhìn chiếc lược và tình thương yêu đồng bào, đồng chí sâu sắc nên ở bất cứ cương vị nào, ông cũng vững tâm hoàn thành nhiệm vụ. Trong sinh hoạt, trong giao tiếp, ông là một mẫu mực về sự giản dị, thẳng thắng và dân chủ.
Để tưởng nhớ những công lao to lớn của đồng chí, tỉnh Hưng Yên đã xây dựng khu nhà tưởng niệm cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh trên nền đất cũ của gia đình rộng 2000m2, thuộc xã Giai Phạm, cách đường 5 khoảng 2km. Khu nhà tưởng niệm được khởi công ngày 29/08/2003 và khánh thành ngày 27/09/2004.
Nhà tưởng niệm là nơi trưng bày những hình ảnh cùng những hiện vật tiêu biểu nhất tái hiện lại cuộc đời và sự nghiệp vẻ vang của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Bên cạnh đó, nhằm khẳng định, tôn vinh những công lao to lớn của đồng chí với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và đáp ứng tình cảm, nguyện vọng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hưng Yên, năm 2008, Ban Bí thư T.Ư Đảng đã cho chủ trương về việc xây dựng tượng đài Nguyễn Văn Linh tại thành phố Hưng Yên.Công trình được khởi công vào dịp 19/5/2012, riêng tượng đài do tác giả Phạm Sinh phác thảo thiết kế và trực tiếp thi công cùng các nghệ nhân tài hoa làng đá Ninh Bình. Bức tượng được hoàn thành nhân kỷ niệm 40 năm Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (4-1975 - 4-2015) và nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1915-2015) là công trình văn hóa - lịch sử có ý nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng.