NGUYỄN THIỆN KẾ (HUYỆN NẺ) (1858 - ?)

Nguyễn Thiện Kế hiệu là Nễ Giang, Nễ Xuyên, thường gọi là ông huyện Nẻ hay huyện Móm, người làng Nễ Độ (tục gọi là làng Nẻ), huyện Tiên Lữ (nay thuộc thôn Nam Tiến, phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên). ...

Năm 1888, niên hiệu Đồng Khánh khoa Mậu Tý, ông thi đậu cử nhân, được bổ làm Tri phủ Thuận Thành, Tri phủ Từ Sơn (Bắc Ninh) rồi bị cách chức, sau được tái bổ làm Huấn đạo Hoàn Long, Tri huyện Tùng Thiện (Sơn Tây), nhưng ông lại bị cách chức lần nữa và cách chức vĩnh viễn, chỉ vì ông ngang bướng khinh thường bọn quan lại cấp trên.

 Nguyễn Thiện Kế có tiếng hay thơ, nhất là thơ trào phúng. Cũng như Nguyễn Khuyến, Tú Xương và một số nhà thơ trào phúng khác ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ông thuộc lớp nho sĩ phong kiến bất mãn với thời thế, sống ngang bướng để tỏ thái độ bất phục tùng của mình. Thơ ông cũng như tính cách của ông: bộc trực, thẳng thắn và giàu tính châm biếm. Ông thường đả kích bọn bán nước cầu vinh và châm biếm cái xã hội băng hoại buổi giao thời chẳng những bằng thơ ca mà còn bằng cả hành động. Chính vì vậy mà dưới con mắt của chúng, ông bị coi là người xỏ xiên. Nhưng qua nội dung văn thơ của ông thì ta lại thấy ông là người có nhân cách.

Tuy làm quan mà suốt đời vẫn nghèo túng, mỗi lần bị cách chức là mỗi lần ông lại bị rơi vào cuộc sống thiếu thốn. Đặc biệt là sau lần cách chức cuối cùng, ông lâm vào cảnh đói khổ. Nhà cửa bị nước cuốn trôi trong một nạn lở bờ sông, ông phải ở nhà người em gái cho đến lúc chết.

Đương thời Nguyễn Thiện Kế nổi tiếng hay Nôm. Ông cũng chính là người đã góp phần tạo thành thi nghiệp của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Trong Giấc mộng lớn Tản Đà đã viết: "Cái sinh nhai quốc văn của mình có hơn 10 năm, thực từ trong lúc thanh niên, có quan huyện (tức Nguyễn Thiện Kế) phát đoan dẫn đạo".

Về thơ văn của ông, người ta thường nhắc đến 2 tập thơ trào phúng, đó là Đại viên thập vịnh (10 bài chửi bọn quan to) và Tiểu viên tam thập vịnh (30 bài chửi bọn quan nhỏ).

Ngoài ra ông có dịch bài Văn tế Chiêu Quân của Tản Đà rất nổi tiếng. Theo Nguyễn Mạnh Bổng trong bài Thân thế và sự nghiệp văn chương của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu in trong sách Tản Đà vận văn thì Nguyễn Thiện Kế có hơn 100 bài thơ trào phúng.

So với Tú Xương hoặc Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, nội dung đả kích trong thơ Nguyễn Thiện Kế không phong phú bằng, các mặt của cuộc sống phản ánh không nhiều, nhưng ở một số bài tính chiến đấu của thơ Nguyễn Thiện Kế lại sâu sắc hơn, quyết liệt hơn. Một trong những nét sâu sắc, quyết liệt đó là sự mô tả, đả kích bọn quan lại thối nát đương thời. Ông căm ghét và khinh bỉ cái hạng người phản dân hại nước và đã chửi thẳng vào mặt chúng, ông gọi tên từng đứa ra để chửi, từ thằng nhỏ đến thằng to. Bài thơ Khen ngợi sáng kiến của tri phủ Quảng Oai là một trong những bài thành công cả về nội dung lẫn hình thức. Đọc lên chúng ta vừa khinh bỉ nhưng cũng vừa thương hại cho những con người đã mất hết lương tri để mải theo danh lợi.

          Khen thay phủ Quảng khéo ranh ngầm!

          Phò nịnh anh Tây cõng mụ đầm

          Đôi vú ấp vai đầu nghểnh nghểnh

          Hai tay ôm đít mặt hầm hầm,

          May mà vững gối nhờ ơn tổ

          Khéo chẳng sa chân chết bỏ bầm!

          Ngoảnh bảo huyện Hoà ôm váy hộ

          Rỉ tai, nhăn mặt bảo nhau thầm                

Trong những bài thơ đả kích bọn quan lại của Nguyễn Thiện Kế có thể nói sâu sắc nhất mà cũng là dũng cảm nhất là bài vịnh Lê Hoan khi tên này về nhận chức Tổng đốc Hải Dương, vốn là một tên lính hầu của Hoàng Cao Khải, nhờ khéo nịnh nọt mà được thăng quan tiến chức, trở thành một tên Việt gian đầu xỏ, hết lòng phục vụ bọn xâm lược Pháp. Chính Lê Hoan đã nhiều lần đem quân đi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, lại còn đứng ra thành lập Hội Hưng Yên tao đàn, lôi kéo, rủ rê hoặc ép buộc một số nho sĩ tổ chức ngâm vịnh. Làm bài thơ vịnh Lê Hoan, Nguyễn Thiện Kế chẳng những tỏ thái độ mạnh dạn của mình mà còn phần nào thể hiện tinh thần dân tộc bất khuất, không những thâu tóm cả lý lịch đen tối của tên Việt gian bán nước mà còn gián tiếp tố cáo chính sách dùng người Việt trị người Việt của thực dân Pháp.

                   Tổng đốc miền Đông ngỡ đứa nào

                   Lê Hoan thôi lại tụi Hoàng Cao!

                   Lính hầu thuở nọ tay ôm tráp

                   Cụ lớn ngày nay ngực gắn sao

                   Rể có Thượng Trần thêm thế lực

                   Giặc còn Đề Thám nổi công lao

                   Khâm sai mà vẫn theo hùa Pháp

                   Nhục đấy còn vinh ở chỗ nào?

Dùng thế tương phản để đả kích, là nét độc đáo trong nghệ thuật thơ ca Nguyễn Thiện Kế. Ông có tài sử dụng ngôn ngữ. Thơ Nôm của ông hầu như không dùng chữ Hán, điển cố mà toàn tiếng Việt, mà tiếng Việt ở đây rất lưu loát, chải chuốt và tự nhiên. Chính vì vậy mà thơ ông súc tích, cô đọng, lời ít ý nhiều. Mỗi bài chỉ có 56 chữ mà ghi đầy đủ hành động, bản chất, đặc điểm của từng đối tượng.

Các tin khác

Tin mới nhất

Xem nhiều nhất

Fanpage

Bình chọn

Đánh giá của bạn về Trang Thông tin điện tử tổng hợp Đối ngoại Hưng Yên
1 người đã bình chọn

Thống kê truy cập

  • Hôm nay:
  • Hôm qua:
  • Tuần này:
  • Tháng này:
  • Năm nay: