ĐOÀN THỊ ĐIỂM (1705 - 1748)

Đoàn Thị Điểm, hiệu Hồng Hà nữ sĩ, người làng Giai Phạm, huyện Văn Giang (nay thuộc xã Giai Phạm, huyện Yên Mỹ)....

Bà chính họ là Đoàn, nhưng vì bà lấy chồng họ Nguyễn (ông Nguyễn Kiều), nên có sách chép bà là Nguyễn Thị Điểm. Bà sinh năm Ất Dậu (1705), thời Lê Trung Hưng. Bà là con gái ông hương cống Đoàn Doãn Nghi. Mẹ bà là người họ Vũ và là vợ hai ông Nghi, nhà ở phường Hà Khẩu, Thăng Long (phố Hàng Bạc bây giờ), sinh một trai (1703) là Đoàn Doãn Luân và một gái (1705) là Đoàn Thị Điểm. Từ nhỏ anh em bà đã theo mẹ về ở với ông bà ngoại là quan Thái Lĩnh Bá và được dạy dỗ chu đáo, lầu thông Tứ thư, Ngũ kinh.

Đoàn Thị Điểm là người có tài trí và nhan sắc hơn người, nổi tiếng từ hồi trẻ. Năm 6 tuổi đã học rất giỏi. Năm 16 tuổi, có quan thượng thư Lê Anh Tuấn mến mộ muốn xin làm con nuôi, để tiến cử vào cung Chúa Trịnh, nhưng bà nhất định từ chối, trở về cùng với cha.

Năm 25 tuổi, cha mất, bà ở với mẹ và anh, làm nghề dạy học ở Mỹ Hào. Được ít lâu, anh mất, bỏ lại đàn con, bà phải trông nom cả. Trong một bài văn tế bằng Hán văn, bà đã kể lại nỗi đau xót của gia đình mình. Sau khi chôn cất cho anh, bà thường bị những kẻ quyền quý đến dạm hỏi và có ý muốn cưỡng bức, nên bà bỏ nơi ở cũ đến ở làng Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội) dạy học và bốc thuốc nuôi mẹ. Học trò đến học rất đông, sau này có Đào Duy Doãn, đậu Tiến sĩ và là người có văn tài cũng là học trò của bà. Năm bà 33 tuổi, ông Nguyễn Kiều người làng Phú Xá (nay thuộc xã Phú Thượng, Từ Liêm, Hà Nội) làm Thị lang đến cầu hôn. Lúc đầu bà từ chối, nhưng sau thấy Nguyễn Kiều là một văn hào nổi tiếng, bà bằng lòng làm vợ kế Nguyễn Kiều. Cuộc tình duyên tuy muộn màng nhưng tâm đầu ý hợp này đã mang lại cho bà hạnh phúc, bà như trẻ lại tuổi đôi mươi. Nó cũng là cơ sở cho cảm xúc trong sáng tác của bà, đặc biệt đã trợ sức để bà dịch thành công tác phẩm Chinh phụ ngâm nổi tiếng sau này.

Lấy chồng được một tháng, năm 1743, Nguyễn Kiều lên đường đi sứ Trung Quốc, ba năm sau mới trở về, vợ chồng sum họp. Trong thời gian xa chồng này, bà dịch tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn phù hợp với tâm trạng xa cách nhớ thương chồng của mình trong lúc tình yêu đang nồng nàn.

          Nguyễn Kiều được cử vào coi trấn Nghệ An, bà đi theo chồng và mất tại đây.

          Bà để lại cho đời hai tác phẩm Truyền kỳ tân phả (truyện) bằng chữ Hán và bản dịch quốc âm tác phẩm Đặng Trần Côn, một bản dịch tuyệt vời có thể coi như sáng tác, độc đáo và sáng tạo về một chủ đề cũng đặc biệt là tâm trạng oán thán chiến tranh của người phụ nữ.

Về tác phẩm Chinh phụ ngâm:

Đoàn Thị Điểm khi còn là thiếu nữ, lúc ở nhà của dưỡng phụ Lê Anh Tuấn tại phường Bích Câu, kinh thành Thăng Long, có dịp gặp Đặng Trần Côn. Côn nhỏ hơn cô Điểm chừng hai tuổi, con nhà quý tộc, quê ở Kẻ Mục, Hạ Đình. Đó là một trang thiếu niên anh tuấn tài hoa, năm 15 tuổi đã đậu Hương Cống. Côn rất quý mến cô Điểm về nhan sắc cũng như về tài văn chương, nên có gửi đến Cô Điểm một bài thơ tỏ ý cầu hôn.

Cô Điểm không trả lời nhưng có nói đùa với các chị em bạn:

“- Cái ông Cống Đặng, miệng còn hôi sữa, làm thơ chưa xong mà lại đi nói chuyện vợ chồng”

Đặng Trần Côn nghe thuật lại thì tức lắm, nên cố gắng miệt mài đèn sách, cố đậu cho được Tiến sĩ trong kỳ thi Hội.

Đầu niên hiệu Cảnh Hưng nhà Lê Trung Hưng, gặp buổi chiến tranh ly loạn, trai tráng bị bắt đi lính đánh giặc phương xa, gây cảnh biệt ly đau đớn cho nhiều gia đình, ông Đặng Trần Côn cảm xúc, đem hết sức học bình sinh viết nên tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng Hán văn theo thể cổ nhạc phủ.

Khi viết xong, Đặng Trần Côn đưa tác phẩm này cho ông Ngô Thời Sĩ xem. Ông Sĩ xem xong lấy làm thán phục nói rằng: "Văn chương tới mức này thì lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi."

Đặng Trần Côn sau đó gửi tác phẩm này đến cho Đoàn Thị Điểm xem, ngụ ý cho bà Điểm biết rằng, trước đây bà xem thường ông là lầm to. Lúc này bà Điểm đã lấy chồng là ông Nguyễn Kiều, và ông Kiều đang đi sứ sang Tàu, bị kẹt ở lại bên đó vì giặc giã cắt đứt đường giao thông, nên chưa trở về Việt Nam được. Bà Điểm xem xong tác phẩm Hán văn của ông Đặng Trần Côn thì rất phục tài văn chương của họ Đặng, lại thấy tâm sự của nàng chinh phụ trong tác phẩm giống y hệt tâm sự của bà lúc đó.

Tâm hồn của người nữ sĩ rung động, và cũng muốn đáp lại tấm tình cảm của Đặng Trần Côn khi trước, bà đem hết sự xúc cảm của tâm hồn, diễn Nôm tác phẩm Chinh phụ ngâm Hán văn của Đặng Trần Côn, theo lối thơ trữ tình hoàn toàn Việt Nam.

Bản dịch gồm 412 câu theo lối song thất lục bát, trong diễn tả nhiều tâm trạng: hy vọng, buồn bã, giận hờn tựu về một mối đó là nỗi nhớ nhung khắc khoải của một người chinh phụ (vợ có chồng đi lính) đang chờ chồng trở về sum họp. Tuy là bản dịch, nhưng thậm chí còn được yêu thích hơn bản chính, nên đến nay được xem như là một sáng tác của bà Điểm. Tác phẩm từng được dịch ra tiếng Pháp bởi những nhà văn trong nhóm Mercure de France, với tên Les Plaintes d’une Chinh phu (1939). Sau này giáo sư Takeuchi dịch ra tiếng Nhật, với tên Seifu Ginkyoku.

Cùng với Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, bản dịch Chinh phụ ngâm của Hồng Hà nữ sĩ được xem là tác phẩm ưu tú của nền thi văn trung đại Việt Nam.

Các tác phẩm khác:

Đoàn Thị Điểm là người có công với nền văn học quốc âm. Riêng về Hà Nội, bà có tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ, là một trong sáu truyện của tập truyện ký “Truyền kỳ tân phả”, được xếp vào những tác phẩm Việt văn thi ca ở triều Lê, sau đời Hồng Đức. (Truyện này về sau được viết lại bằng chữ Nôm theo thể văn vần, không biết tác giả).

Đoàn Thị Điểm còn là một nữ sĩ nổi tiếng với nhiều giai thoại về khả năng xuất khẩu tài tình. Đêm trăng, anh trai Đoàn Doãn Luân từ ngoài bờ ao vào thấy Đoàn Thị Điểm đang soi gương bèn đọc:

Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm

 (Soi gương vẽ mày, một chấm hóa thành hai chấm)

Đoàn Thị Điểm đáp ngay:

Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân

 (Ra ao ngắm trăng, một vầng chuyển hóa hai vầng)

Tương truyền một lần Đoàn Thị Điểm đang tắm còn Trạng Quỳnh đang đợi ngoài cửa và đứng ngoài đập cửa đòi vào. Đoàn Thị Điểm đã ra câu đối "Da trắng vỗ bì bạch" và giao hẹn nếu đối được thì đồng ý. Nhưng với câu đối này, Trạng Quỳnh không thể đối lại được.

Đoàn Thị Điểm có lần gặp Trạng Nguyễn và hai người cùng đi tìm đường đến phố Mía (phố chuyên kéo mía làm mật, đường). Trên đường đi, bà đã phải hỏi đường một cô hàng mật. Gần đến nơi, bà ra vế đối:

Lên phố Mía, gặp cô hàng mật. Cầm tay kẹo lại, hỏi thăm đường.

Trạng Nguyễn không đối lại được đành cúi đầu bái biệt.

Bà Đoàn Thị Điểm đứng hàng đệ nhất cùng các nữ sĩ tên tuổi trên văn đàn Việt Nam như: Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Sương Nguyệt Anh,... Bà là một nữ sĩ có thi tài lỗi lạc, lời thơ tao nhã, đài các, bóng bẩy đầy âm điệu. Bà còn là một phụ nữ mẫu mực nho phong, đầy đủ hiếu thảo, nghĩa khí.

Các tin khác

Tin mới nhất

Xem nhiều nhất

Fanpage

Bình chọn

Đánh giá của bạn về Trang Thông tin điện tử tổng hợp Đối ngoại Hưng Yên
1 người đã bình chọn

Thống kê truy cập

  • Hôm nay:
  • Hôm qua:
  • Tuần này:
  • Tháng này:
  • Năm nay: