Chiến thắng Ðiện Biên Phủ là chiến công vang dội của một dân tộc vốn là thuộc địa, đánh thắng quân đội hiện đại của một đế quốc phương Tây. Ðây cũng là chiến thắng điển hình nhất trong lịch sử đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống quân xâm lược nước ngoài, mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Chính vì vậy, chiến thắng Ðiện Biên Phủ mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của tinh thần quật cường, bất khuất, trí thông minh, sáng tạo của Nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, với những mưu đồ đã dự tính từ trước, đế quốc Mỹ trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất cẳng Pháp, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Ðình Diệm, thực hiện chính sách thực dân mới, mưu đồ chia cắt lâu dài đất nước ta.
Trước tình hình đó, Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo quân và dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: một là cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; hai là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà.
Chung sức cùng đồng bào miền Nam kháng chiến chống Mỹ, Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Hưng Yên đồng lòng quyết tâm xây dựng hậu phương Hưng Yên vững chắc, sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến miền Nam.
Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển sản xuất, củng cố hậu phương, từng bước phát triển kinh tế - xã hội, đẩy lùi nạn đói, rét, ổn định đời sống Nhân dân
Sau khi thực dân Pháp rút khỏi tỉnh Hưng Yên, tình hình chính trị - xã hội ở Hưng Yên diễn biến rất phức tạp. Lực lượng chống phá cách mạng sử dụng gián điệp cũ của Pháp và chính quyền tay sai, các đảng phái đối lập để chống phá bằng các thủ đoạn như: rải truyền đơn, tung tin bịa đặt, xuyên tạc, gây mất an ninh trật tự,... nhất là âm mưu và thủ đoạn cưỡng ép đồng bào công giáo di dân vào Nam. Hưng Yên là tỉnh có nhiều đồng bào theo đạo Thiên Chúa, địch dùng mọi chiêu thức để dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di dân vào Nam.
Từ thực tế đó, nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho Ðảng bộ tỉnh Hưng Yên là nhanh chóng ổn định tình hình chính trị - xã hội, trật tự trị an, kiên quyết đấu tranh chống lại hành động dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di dân. Một mặt, Ðảng bộ tỉnh tích cực chỉ đạo thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, làm cho quần chúng hiểu rõ quan điểm, đường lối của Ðảng; mặt khác cương quyết đấu tranh, xử lý bằng pháp luật những tên cầm đầu, ngoan cố. Các huyện, xã đã thành lập “Ban vận động đấu tranh chống địch cưỡng bức giáo dân di cư vào Nam”; thành lập các đội đấu tranh chống cưỡng ép di cư, lấy tên là Ðội hướng dẫn sản xuất; thành lập các tổ công tác đi tuyên truyền, vận động giáo dân ở lại, thực hiện “Ba cùng” với giáo dân (cùng ăn, cùng ở, cùng làm). Nhờ kiên trì vận động và bằng các hành động cụ thể, bà con giáo dân đã dần thay đổi nhận thức, có thiện cảm với chính quyền cách mạng, số giáo dân di cư vào Nam đã giảm nhiều. Số đông giáo dân ở lại và số rời bỏ các trại “chờ di cư” trở về được giúp đỡ ổn định đời sống, cùng xây dựng xóm làng yên vui.
Bên cạnh việc ổn định tình hình chính trị, công tác đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, Ðảng bộ tỉnh Hưng Yên khẩn trương cùng Nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển sản xuất, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Việc khắc phục hậu quả chiến tranh, đồng thời với phát động giảm tô được tỉnh quan tâm đẩy mạnh. Từ giữa năm 1955, toàn tỉnh rầm rộ phát động quần chúng đánh đổ giai cấp địa chủ, tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện “người cày có ruộng”. Ðến giữa năm 1956, cuộc Cải cách ruộng đất ở tỉnh Hưng Yên cơ bản đã hoàn thành. Các phong trào thi đua lao động sản xuất diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ. Theo tinh thần của Nghị quyết Ðại hội Ðảng bộ tỉnh lần thứ IV (tháng 3/1959) - Ðại hội đầu tiên sau cuộc kháng chiến chống Pháp đã đưa ra bốn nhiệm vụ cơ bản, gọi tắt là “Tứ hóa” (thủy lợi hóa, hợp tác hóa, văn hóa hóa và quân sự hóa). Trên khắp các địa phương, Nhân dân Hưng Yên sôi nổi thi đua làm thuỷ lợi, quyết tâm “vắt đất ra nước”, “thay trời làm mưa”. Toàn tỉnh như một công trường khổng lồ với nhiều công trình thủy lợi lớn như: Công trình Ðại thuỷ nông Bắc - Hưng - Hải; Công trình sông Ðiện Biên; Công trình dòng sông Bác Hồ của huyện Tiên Lữ... Chỉ sau một thời gian ngắn, hạn hán đã được đẩy lùi. Diện tích canh tác mở rộng, sản lượng lúa và hoa màu tăng nhanh. Hưng Yên và Thái Bình là hai tỉnh đi đầu trong cuộc vận động đồng bào đi khai hoang, “phá xiềng 3 sào, mở rộng sản xuất” từ sau năm 1960. Từ hợp tác xã Hoàng Văn Thụ đầu tiên do tỉnh trực tiếp xây dựng cuối năm 1960, đến năm 1965, toàn tỉnh đã xây dựng được 176 cơ sở hợp tác xã. Từ một tỉnh còn thiếu đói, đến đầu những năm 1960, Hưng Yên không những tự chủ được lương thực và có một phần cung cấp cho Nhà nước.
Với những thành tích nổi bật trong công tác thuỷ lợi, tỉnh Hưng Yên vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và được Bác tặng Cờ luân lưu “Làm thủy lợi khá nhất miền Bắc”. Liên tục trong 4 năm, từ năm 1961-1964, Hưng Yên đều được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen và được tặng Cờ luân lưu “Làm thuỷ lợi khá nhất”. Nhiều cá nhân được Bác thưởng Huy hiệu của Người, điển hình là các Anh hùng Lao động: Phạm Thị Vách (huyện Kim Ðộng), Vũ Thị Tỵ (huyện Tiên Lữ), Lê Thị Lục (huyện Khoái Châu)... Cùng với việc đẩy mạnh phong trào “thủy lợi hóa” và “hợp tác hóa”, quân và dân Hưng Yên đã quyết tâm phấn đấu đạt được nhiều thành tích trong phong trào “bổ túc văn hoá” và “quân sự hoá”, từ đó góp phần vào thành công chung của phong trào “Tứ hoá”, nhằm phát triển toàn diện, nâng cao dân trí, tiếp thu khoa học kỹ thuật vào sản xuất và xây dựng lực lượng vũ trang bảo vệ quê hương, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm xây dựng hậu phương (1955 - 1965), Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Hưng Yên đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng, nổi bật như: hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), kinh tế có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Từ chỗ “mười năm chín hạn”, “chiêm khê mùa úng”, thường xuyên mất mùa, Hưng Yên đã phát triển kinh tế nông nghiệp ổn định. Tổng giá trị sản lượng trong sản xuất nông nghiệp tăng liên tục, bình quân 3 năm cải tạo (1958-1960) từ 80.121.000 đồng, tăng lên 94.573.000 đồng năm 1962 và tăng lên 94.718.252 đồng năm 1965. Các ngành như: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp đều đạt kết quả tốt. Tổng giá trị hàng xuất khẩu năm 1965 là 5.978.000 đồng, bán ra được 6.423.846 đồng, đạt 107%, trong đó lượng hàng xuất khẩu cấp I đạt 112%, hàng xuất khẩu cấp II đạt 101% 1. Kết quả đó là động lực để hậu phương Hưng Yên trở nên vững chắc, góp phần hoàn thành, vượt các chỉ tiêu đóng góp Nhà nước, sẵn sàng chi viện cho chiến trường miền Nam.
Luôn chủ động xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ
Ðầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn, Tổng thống Mỹ Johnson quyết định chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân đội vào trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam, đồng thời sử dụng lực lượng không quân và hải quân mở rộng chiến tranh ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Trước âm mưu và thủ đoạn của Mỹ, tháng 9/1964, Hội nghị Bộ Chính trị chủ trương giành một thắng lợi quyết định ở miền Nam, tranh thủ thời cơ, cố gắng đánh bại hoàn toàn quân đội Việt Nam Cộng hòa trước khi quân Mỹ vào miền Nam, đồng thời từng bước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ ở miền Bắc.
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, trong bối cảnh phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, Ðảng bộ và Nhân dân tỉnh Hưng Yên vẫn hăng say thi đua lao động sản xuất. Các phong trào thi đua yêu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ như: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Tay búa, tay súng”, “Ba quyết tâm”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Thanh niên ba sẵn sàng”... Ðáng chú ý là phong trào xây dựng “cánh đồng 5 tấn thắng Mỹ” đạt được hiệu quả cao.
Năm 1968, thực hiện Nghị quyết số 504-NQ/TVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương hợp nhất thành tỉnh Hải Hưng. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng bộ tỉnh Hải Hưng, Nhân dân trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua và đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Năm 1974, tổng diện tích gieo cấy là 264.411 ha, đạt 97% kế hoạch; năng suất lúa cả năm đạt gần 6 tấn/ha, các huyện, thị xã đều đạt mục tiêu 5 tấn/ha. Ðiển hình như Hợp tác xã Như Quỳnh (nay là thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm) đạt hơn 10 tấn/ha, ngoài ra còn có hơn 100 hợp tác xã đạt từ 7 đến 9 tấn/ha. Sản lượng lương thực năm 1974 không những vượt đỉnh cao năm 1972 trên 10 vạn tấn mà còn vượt cả mục tiêu phấn đấu đề ra cho kế hoạch năm 1975. Về sản xuất công nghiệp, giá trị tổng sản lượng toàn ngành năm 1974 đạt 100,9% kế hoạch, 29/42 xí nghiệp quốc doanh và hầu hết các cơ sở tiểu thủ công nghiệp đều đạt và vượt mức kế hoạch.
Ðảng bộ tỉnh chủ động xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Lực lượng vũ trang địa phương, dân quân du kích, đội tự vệ chiến đấu của các huyện, thị xã và các xã, cơ quan, xí nghiệp được xây dựng và không ngừng phát triển... Năm 1967, toàn tỉnh có 12.811 dân quân, tự vệ, chiếm tỉ lệ 10,29% dân số, các phân đội dự bị cơ sở tiếp tục được xây dựng sẵn sàng bổ sung cho quân đội. Tỉnh đã căn bản hoàn thành việc xây dựng làng chiến đấu.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác giao thông vận tải được chú trọng và luôn được đảm bảo thông suốt. Năm 1972, thời điểm Mỹ bắn phá ác liệt, trong vòng 5 tháng, toàn tỉnh đã rà, tháo, gỡ được 105 quả bom dưới lòng sông và nhiều bom, mìn trên địa bàn để đảm bảo an toàn các tuyến giao thông2. Nhân dân tích cực tham gia sửa chữa, đào mới hầm, hố, giao thông hào trong nhà, ngoài đồng, trên các tuyến đường, tổ chức canh gác báo động, sơ tán, phân tán, che phòng, ngụy trang: Toàn tỉnh lập được 354 trạm quan sát báo động; đào được 255.598 hầm gia đình và công cộng; 742.606 hố cá nhân; 578.824 m hào giao thông; bình quân 2,5 người có 1 hầm; 1 người có 1,2 hố và 0,9 m giao thông hào.
Từ cuối năm 1965 đến cuối năm 1972, đế quốc Mỹ nhiều lần dùng máy bay bắn phá ác liệt hầu khắp các tỉnh miền Bắc. Quân, dân trong tỉnh đã kiên cường chiến đấu bắn máy bay địch, ngăn chặn âm mưu mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc. Năm 1966 - 1968, máy bay địch đã ném hàng nghìn quả bom, tên lửa các loại xuống các ga đường sắt, Ðường số 5, bến đò, bến phà, các đoạn đê sông Hồng, sông Luộc và một số khu dân cư, đường giao thông thủy, bộ. Nhiều trường học, bệnh viện, công trình thủy lợi, cơ sở đang sản xuất bị ném bom, bắn phá, gây thiệt hại rất lớn về người và của. Tuy vậy, quân và dân toàn tỉnh luôn kiên cường và sẵn sàng chiến đấu.
Ngày 17/7/1972, trong đợt bắn phá lần 2 của địch, đơn vị 3662 đã tiêu diệt 1 máy bay A6. Ngày 15/8/1972, tiểu đoàn 71 bắn rơi 1 máy bay khác trên bầu trời của tỉnh. Ngày 22/12/1972, một máy bay B52 bị bắn cháy rơi xuống dòng sông Luộc, một khoang đuôi và một phần chiếc cánh B.52 rơi trên bãi mía thôn Ðồng Chấm và thôn Sĩ Quý (xã Nguyên Hòa, huyện Phù Cừ)3.
Sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam
Vừa chủ động đối phó địch, khắc phục khó khăn để phát triển kinh tế, xã hội, Hưng Yên vừa sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Theo tiếng gọi chống Mỹ, thanh niên Hưng Yên có mặt trên khắp các chiến trường miền Nam, trực tiếp tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Năm 1965, toàn tỉnh có gần 3.000 nam, nữ thanh niên gia nhập Ðội Thanh niên xung phong, số thanh niên lên đường nhập ngũ mỗi năm đều tăng. Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi chống Mỹ” gửi đến đồng bào và chiến sĩ cả nước, trong lời kêu gọi ấy, có câu nói nổi tiếng bất hủ và đã trở thành chân lý của mọi thời đại “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Thực hiện Lời kêu gọi chống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều lá đơn tình nguyện nhập ngũ và tái ngũ được viết bằng máu của chính người viết, thực sự là những “Huyết tâm thư”; những gương “Trai tòng quân thì gái cũng tòng quân”; một nhà làm đơn xin cho hai, ba cha con tái ngũ và nhập ngũ xuất hiện khắp nơi. Năm 1973, tỉnh đã hoàn thành hai đợt tuyển quân, chi viện cho chiến trường 12.268 người (chỉ tiêu là 11.400 người). Năm 1974, chỉ tiêu tuyển quân của tỉnh là 11.638 người, tỉnh giao vượt chỉ tiêu 147 người. Năm 1975, tỉnh giao 23.797 người, vượt chỉ tiêu là 237 người.
Về chi viện nguồn vật lực cho chiến trường miền Nam, với khẩu hiệu hành động “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Tất cả vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, hằng năm, tỉnh đều hoàn thành đủ hoặc vượt chỉ tiêu giao nộp lương thực, thực phẩm cho Nhà nước. Về nghĩa vụ lương thực: năm 1960, toàn tỉnh đóng góp cho Nhà nước được 14.080 tấn; đến năm 1974, số lương thực được huy động đạt con số là 138.430 tấn. Hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm đã được chuyển vào chiến trường, thể hiện tinh thần trách nhiệm, tình cảm cách mạng của Ðảng bộ và Nhân dân toàn tỉnh đối với đồng bào miền Nam.
50 năm đã trôi qua, kể từ ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, nhưng bài học về phát huy sức mạnh hậu phương vẫn còn nguyên giá trị. Những đóng góp của hậu phương lớn miền Bắc nói chung và tỉnh Hưng Yên nói riêng về sức người, sức của chi viện cho chiến trường miền Nam ruột thịt đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại mùa Xuân năm 1975.
Nguyễn Thế Chuyền,
Phó Trưởng ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy
https://baohungyen.vn/hung-yen-hau-phuong-vung-chac-trong-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-3180883.html