Có thuyết kể rằng khi Khúc Thừa Dụ khởi nghĩa, tiến đánh Đại La, chiếc bánh Khúc trở thành thứ quân lương được hào trưởng Khúc cho làm, cho luồn vào các bao tượng buộc chặt vào thắt lưng, tiện dụng, cần ăn khi hành quân đường dài và cũng là món quà ăn mừng của quân sĩ giữa ngày Đại thắng giải phóng Đại La.
Tiếng rao “Bánh khúc nóng…đê!” thật dễ dàng để mời gọi đám người đang co ro vì rét. Những người bán bánh khúc ở Văn Giang, Hưng Yên chỉ có chiếc xe đạp cũ kỹ, đằng sau là thúng bánh được ủ rất kỹ. Nhiều du khách bốn phương mua bánh khúc cũng chỉ vì tò mò về hương vị, cũng có người thì tấm tắc: “Đã ăn rồi, giờ ăn bánh trên đất Hưng Yên xem có khác không!”…
Chiếc bánh được gói bằng lá chuối tây (cây chuối cao, tàu lá trơn và rộng). Bánh khúc được hấp chín nên lá rất mềm, dai và thơm phức. Mỗi gánh hàng rong bán chỉ trong đầu giờ sáng là hết sạch, chẳng mấy chốc cả nồi bánh hàng trăm cái đã được mua hết. Người mua về làm quà, người ngồi xum xuê ngay tại đó thưởng thức. Bánh nóng lại ăn vào lúc trời lạnh thì hương vị còn gì bằng nữa.
Món quà quê mộc mạc như chính những nguyên liệu làm ra nó. Bóc lớp lá chuối bên ngoài, ruột bánh có màu xanh đen, đúng như màu đặc trưng của lá khúc. Chỉ cần cắn một miếng sẽ thấy nhân bánh lộ ra trông rất hấp dẫn. Người thưởng thức cứ thế tấm tắc hương vị của bánh. Sự kết hợp độc đáo những sản vật quê mùa đã cho ra loại bánh có vị bùi bởi đỗ xanh, vị béo ngậy bởi thịt ba chỉ và hương thơm rất quê kiểng bởi thứ lá khúc… Thật khác với những loại bánh hào nhoáng, sang trọng mà người ta vẫn gói trong chiếc hộp hay vỏ giẫy đẹp đẽ trên đất thủ đô.
Bánh khúc được người dân Hưng Yên dọc ven sông Hồng làm nhiều chứ không riêng gì ở Văn Giang. Cũng bởi cây rau khúc có nhiều trên triền đê sông, là thứ nguyên liệu chính tạo nên “cái hồn” của loại bánh này. Rau khúc có hai loại: khúc tẻ và khúc nếp. Cây khúc tẻ có lá to hơn khúc nếp, nhưng khi làm bánh không ngon bằng. Rau khúc thường có ở miền Bắc vào mùa xuân nhất là dịp lễ Thanh Minh là lúc rau khúc tốt tươi nhất. Rau khúc có thể hái về phơi khô, sau muốn làm bánh cũng mang ngâm, giã nhỏ,và làm bình thường theo cách bên trên. Bốn mùa đều có bánh khúc là nhờ vậy.
Người dân Hưng Yên không phải trồng mà rau khúc tự mọc rất nhiều ngoài đê, ngoài bờ ruộng. Những lá tươi non được hái về, bỏ cọng úa xơ, rửa sạch rồi và đem ra giã cho thật nhuyễn. Trước đây, người ta dùng cối đá để giã lá khúc chứ không phải dùng máy xay như bây giờ. Có lẽ vì sự kỳ công đó khiến bánh khúc có hương vị riêng như vậy. Bánh khúc là đặc sản của bà con Hưng Yên sống dọc ven sông Hồng
Nguyên liệu làm bánh khúc còn có bột gạo nếp. Người Hưng Yên vẫn có thói quen xay bột ướt (gạo ngâm nước qua một đêm rồi đem đi xay), nhưng cũng có thể xay khô rồi trộn nước sau đều được. Bột gạo trộn với lá khúc đã được giã rồi nặn làm ruột bánh. Để bánh dậy mùi thơm, khi làm nhân bánh, ngoài đỗ xanh và thịt ba chỉ, bí quyết của người dân Văn Giang còn là cho thêm một chút hạt tiêu. Hấp bánh khúc cũng có chút khác biệt với các loại bánh khác. Từng lớp bánh khúc xanh mướt được xếp xen kẽ với từng lớp gạo nếp trắng ngần vào chõ hấp tạo nên một món bánh tròn trịa màu sắc hài hòa, Bánh được hấp trong vòng 30-45 phút đến khi xôi nếp bên ngoài chín mềm, nức mũi là được
Chiếc bánh khúc “đạt yêu cầu” phải có ruột màu xanh đen, trông nhuyễn nhưng khi ăn có chút xơ xơ; hương bánh thơm giản dị từ vỏ lá bên ngoài đến ruột và nhân. Nhiều người nhầm tưởng bánh khúc là xôi khúc (xôi cúc) – thứ quà sáng quen thuộc vẫn thường thấy nhiều trên thành phố. Xôi khúc chỉ có một chút lá khúc ở nhân còn bánh khúc lại hoàn toàn sử dụng lá khúc để làm ruột bánh.
Bánh khúc, nó là món quà được ăn vào những sáng sớm mát lành hay những tối mùa đông rét ngọt. Phải ăn vào những lúc như thế mới cảm nhận hết cái nóng ấm của lá khúc quyện với vỏ xôi bên ngoài, vị đậm đà, thơm nồng của hạt tiêu, của nhân đỗ xanh thịt bên trong. Thật ấm và bùi…. Nếu như muốn cảm nhận rõ nét hương vị của thứ lá khúc quê mùa ấy, bạn nên tìm về Hưng Yên để thưởng thức hương vị bánh khúc truyền thống