Theo truyền thuyết, vào thế kỷ XIII khi quân Nguyên xâm lược nhà Tống, vua và hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam. Để giữ trọn khí tiết, lòng thuỷ chung với vua và trung thành với tổ quốc bà đã nhảy xuống biển tự tận khi bị giặc Nguyên Mông truy đuổi. Xác của bà không trôi theo dòng nước mà lại trôi ngược dòng vào vùng Phố Hiến, được nhân dân chôn cất chu đáo. Người nội thị của triều đình Bắc quốc là quan thái giám họ Du trong cơn loạn lạc tới Phố Hiến, được nhân dân địa phương giúp đỡ đã tập hợp những người Hoa lánh nạn hưng công xây dựng đền thờ, lập làng Hoa Dương. Khi thái giám mất, dân làng tôn làm thành hoàng làng, ngôi mộ được giữ gìn trong khuôn viên của đình Hiến.
Đền Mẫu được toạ lạc trên một vùng đất rộng gần 3000m2, quay về hướng Tây Nam. Theo sách Đại Nam nhất thống chí: Đền được xây dựng dưới triều vua Trần Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo thứ nhất (1279). Qua thời gian ngôi đền không ngừng được trùng tu và xây dựng thêm. Vào năm Thành Thái thứ 8 (1896) đền Mẫu được trùng tu lớn và có quy mô như ngày nay. Đền được xây dựng theo bố cục tiền nhất hậu đinh gồm các hạng mục chính như: Tam quan, thiên hương, tiền tế, trung từ, hậu cung. Toàn bộ công trình được bài trí hài hòa và được xây dựng bằng nguyên liệu bền vững như: gỗ lim, vôi mật, xi măng tạo nên một khu di tích khang trang thoáng đãng. Nghi môn đền được xây dựng rất bề thế với chiều dài là 16,9m, kiến trúc chồng diên 2 tầng 8 mái. Cửa đền được xây dựng theo kiểu vòm cuốn gồm 1 cửa chính và hai cửa phụ, cửa chính cao 7m đắp hình ngói ống, tầng trên cửa Nghi môn đắp bức đại tự “Thiên hạ mẫu nghi” và được ghép bằng các mảnh gốm lam (đây là nét trang trí điển hình của kiến trúc thời Nguyễn).
Tòa tiền tế, trung từ có nhiều bức cốn chạm khắc đề tài tứ linh, tứ quý. Hậu cung có tượng Dương Quý Phi cùng hai người hầu là Kim Thị và Liễu Thị, niên đại thế kỷ 17-18. Tượng Quý Phi được tạo tác sống động, nét mặt trang nghiêm, đôn hậu. Dưới ban thờ có dấu tích một cái giếng nhỏ. Tương truyền giếng vốn là “rốn biển”, khi biển lùi xa để lại dấu tích cùng với hồ Bán Nguyệt cho nên nước giếng luôn đầy vơi theo nước hồ. Trong đền lưu giữ nhiều di vật quý như kiệu võng, long đình, long sàng, long kỷ có niên đại thế kỷ 18-19 và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến Nguyễn, cùng nhiều bức hoành phi, câu đối, đại tự ca ngợi tấm gương trinh tiết của Quý Phi
Điều đặc biệt của Đền mẫu chính là cây cổ thụ giữa sân có niên đại gần 1000 năm tuổi đó là sự hội ngộ của 3 cây đa- sanh –si quấn quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng vững chắc cành lá vươn cao xum xuê che phủ cho toàn bộ ngôi đền tăng thêm vẻ thâm nghiêm, huyền bí cho di tích. Đền Mẫu có không gian và kiến trúc đẹp, đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là di tích “kiến trúc nghệ thuật” năm 1990.
Lễ hội đền Mẫu được diễn ra từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 3 âm lịch hàng năm. Trong hội thường diễn ra các hoạt động văn hoá dân gian như; rước kiệu, múa lân, múa rồng, rước nước... rất long trọng và được diễu qua nhiều đường phố tạo nên một không khí tưng bừng mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Buổi rước sôi động nhất là rước liềm và rước du.
Rước liềm tổ chức vào ngày 12/3, đám rước xuống đình Hiến và trở về đền chính. Đi đầu là cờ, trống chiêng, long đình, bát bửu, lộ bộ, có đội múa lân, múa rồng. Đám rước đi một đoạn thì dừng lại để biểu diễn múa cờ. Bốn thanh niên cầm 4 cờ, múa theo nhịp trống, lúc nhanh, lúc chậm. Sau mỗi tiếng trống, người múa cờ “hứ” một tiếng to và dài (nên được gọi là trò “tùng hứ”).
Đám rước du được tổ chức vào ngày hôm sau. Đám rước đi quanh phố. Đi trong đám rước cũng như hôm rước liềm. Trong đám rước, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám rước, có múa “Con đi đánh bồng”. Đám rước đi đến đâu hai bên đường các gia đình đốt pháo nổ không dứt.
Đền Mẫu từ khi được thành lập đến nay ngày càng trở nên linh thiêng và thu hút được đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh đến hành hương chiêm bái cầu phúc, cầu lộc, cầu tài Không chỉ vào chính hội, mà vào những ngày rằm, mồng 1 âm lịch hàng tháng lượng người đến thắp hương lễ bái và thăm quan cũng rất đông. Theo thống kê của ban quản lý đền hàng năm có hàng vạn lượt khách trong và ngoài nước đến thăm quan và dâng hương.